Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

Vuợt biển, một chuyến đi … !



Nguyễn Hà Tịnh


Khẽ đến rồi đi một kiếp phù
Chỉ còn lưu lại dấu chân du           
Truợng phu, cơm áo đời xem đủ !   
Dân tộc thiên thu sống ngục tù.



Ngày 30 tháng 4 nầy nữa là 28 năm kể từ ngày tôi rời khỏi “ thiên đuờng” Việt cộng.
Theo thông lệ hàng năm, những ngày nầy bọn Việt cộng tổ chức thi đua treo băng--rôn và bảng đỏ ngoài đường phố đánh dấu cái gọi là kỷ niệm mừng ngày “ giải phóng” miền nam. Những lời của Mác của Hồ: “ Chủ nghia Mác Lê anh hùng vô địch - Ta nhất định thắng địch nhất định thua- Không có gì quí hơn độc lập tự do - Làm theo bác Hồ dạy hầm bà lằng... được dịp đem ra xài xả láng. Và thời gian nầy chúng tôi cũng chuẩn bị tàu ghe chờ bọn chúng nhập tiệc là vọt liền. Đúng đêm 30 tháng 4 pháo bông được bắn lên. Chúng tôi 41 nguời trên chiếc ghe chín mét cung âm thầm lặng lẽ ra đi từ giã “ thiên đuờng của bác” đến một phương trời vô định ( đúng là phương trời vô định vì chúng tôi chẳng có la bàn ). Biển yên, sóng lặn không có một chút gió. Sao Nam Thập là điểm chúng tôi dùng để định huớng đưa tay vẫy gọi, bầu trời hàng ngàn vì sao khác chớp chớp lấp láy nhu vẫy chào đưa tiễn chúng tôi.



Rạng sáng hôm sau mặt trời lên tuyệt đẹp, vàng rực một phuong, dãy đất mủi Cà Mâu mờ mờ ảo ảo, bên phải Hòn Chuối, bên trái Hòn Khoai chỉ nhận thấy mờ mờ. Lòng buồn xót xa nghi ngợi. Nhu vậy là mình đi thật rồi không biết ngày nào trở lại ! Quê hương, cha mẹ, anh em làng xóm, nguời yêu “dễ dụ “ luôn cả “con mẹ“ bán quán nhậu chủ nợ của tôi ơi ! Thế là hết. Hết rồi không còn gì nữa cả. Tất cả phủi tay một cái … rột !. Biết bao giờ gặp lại, có gặp, chỉ trong giấc mơ, trong ký ức, trong nổi nhớ …mà thôi ! Chào tạm biệt. Xin chào tất cả !Đang đê mê bồi hồi suy tưởng chợt anh Hồng ( thiếu tá Trần Cao Hồng phục vụ tại trung tâm huấn luyện Đồng Tâm ) nguời lớn tuổi nhất trên tàu nói lớn: “ Tất cả bà con chú ý! Chúng ta sắp ra khỏi hải phận, xin bà con quay mặt về Việt Nam cúi đầu chào quê hương lần cuối. Mọi người quay lại cúi đầu chào vĩnh biệt. Không ai bảo ai mọi nguời đều khóc. Riêng tôi khóc như đứa trẻ bị mất quà. Chúng tôi uớc tính biển êm như thế nầy 2 hay 3 ngày tàu sẽ đến đuợc Thailand hay Malaysia gì đó nếu có trôi dạt. Mọi nguời cuời nói huyên thuyên. Phần tôi thì tính toán trong đầu, nào là đến trại tị nạn sẽ gởi thư và mấy tấm hình màu về, nếu có qua tới Mỹ hay Úc gì đó thì cố gắng đi làm rồi mua một chiếc xe, đứng cạnh chiếc xe chụp một tấm hình gởi về cho mấy thằng bạn còn ở lại cho bọn nó “lé” mắt chơi. Đang tiếp tục “dệt mộng” thì nghe súng nổ đùng đùng, đạn bay chéo chéo, ngó lại, thấy hai chiếc tàu từ xa xịt khói đuổi theo. Như thế là chết rồi, công an bắt rồi , còn hình màu, hình mè gì nữa. Tôi than ! Túng quá, tôi cởi cái áo trắng mà tôi đang mặc, cột vô cây sào nằm xuống hươ hươ ra dấu đầu hàng. (Là dân vùng biển tôi từng chứng kiến nếu không đầu hàng cố tình bỏ chạy khi chúng bắt đuợc thì một tàu nguời ít nhất cung chứa nửa tàu máu ) Thấy “cờ “ bọn chúng không bắn ngay vào tàu nữa mà chỉ bắn trên đầu để dọa. Việc đầu tiên chúng đến là thẩy dây qua và bảo cột tàu tôi vào tàu của chúng. Sau đó chỉa súng la hét, bắn dọa mọi nguời cởi hết quần áo ra. Nhiều cô nhiều bà sợ quá, tuột hết. Thấy thế tôi bảo : “ mặc vô đi, chúng chỉ bắt đàn ông con trai tuột thôi, mấy bà “tuột” nhu vậy kì lắm. “ Thấy tôi nói chuyện, một thằng bắn ngay qua đầu nạt lớn. Ê, thằng kia ! Tôi hỏi, Anh kêu tôi hả ? -Ừ… Nhảy xuống. Tôi liền nhảy tỏm xuống biển. Hắn bảo. Lội qua đây. Tôi lội qua, tới tàu hắn kéo đầu lên, chưởi liền: Đ…mẹ vuợt biên hả, tài công hả ? Tôi trả lời: ” không, không phải anh ơi, chúng tôi bị gạt không có tài công, nên tôi cầm lái, lái đại đi thôi “ Hắn vố tôi một bộp tai và nói:

- Ai là anh của mầy. Tao nhìn ống dòm thấy mầy ngồi cầm lái còn chối nữa hả !

- Nếu ông không tin thì hỏi mấy nguời khác trên tàu ! Tôi trả lời.

Hắn nện thêm một cú nữa.

- Ai là ông của mầy.  Đồ phản quốc!.

Nghe đến ba tiếng “ đồ phản quốc” nuớc mắt tôi rưng rưng. Không phải hắn đánh tôi đau nhưng lòng tôi thấy đau xót. Tôi muốn cải lại hắn là tôi đâu có phản quốc. Tôi chỉ vuợt biên. Dù sao đi nữa là thằng có gốc gác quê hương Nghệ- Tỉnh, quê ông Hồ gốc cứng đầu … đâu dễ để ai đổ oan. Nhưng nghĩ đến mấy bộp tai vừa rồi tôi đứng lặng thinh mặc cho nuớc mắt lăn tròn. Sau đó bọn chúng ra lệnh cho từng nguời nhảy tuốt xuống biển lội qua tàu chúng. Chúng trói lại hai nguời một xâu. đàn bà con nít để ngồi trên boong, còn đàn ông con trai thẩy hết xuống hầm muối cá nhốt lại. Mình trần như nhộng, mồ hôi đổ ra như tắm, giòi con nào con nấy to bằng đầu đủa đua nhau ve vuốt trên mình chúng tôi.

Ngày xưa chuồng cọp “ đế quốc“ nhốt mấy ông “tù cách mạng “ như thế nào tôi không biết. Chớ mấy ông “công an nhân dân” nhốt chúng tôi trong cái hầm giòi như thế nầy thì họ chiếm vô địch quán quân về đầu óc sáng tạo và thấm nhuyễn nhừ “tư tuởng vĩ đại” của bác rồi không ai có thể qua mặt nổi.

Bớ. Ông cha Phan Khắc Từ, ông linh mục “ áo đỏ“ ơi ! Công an nhân dân đang chơi chiêu độc trên mình chúng tôi! Tụi tui chỉ là những thằng vuợt biên, những thằng sau nầy các ông gọi là “ khúc ruột xa ngàn dậm “. Xin mở nấp hầm ra, cho tôi miếng nước, cho tôi miếng gió. Trời ơi, cộng sản đang hấp muối chúng tôi nè !.

Nghĩ, chỉ dám nghĩ thôi chớ đâu dám la, la bọn chúng nổi quạu xách đầu lên bắn mỗi thằng một phát thẩy tuốt xuống biển thì bỏ mẹ, bỏ cha lập tức.

Ai . Chớ ! Cái thằng nói giọng “bắc kỳ “ có gương mặt xấu xí nhu quỷ dạ xoa với hàm răng mã tấu. Mở miệng ra là: “Đi…mẹ chúng ông bắn… bỏ mẹ chúng mầy“ cái thằng vố tôi mấy bộp tai dám làm thiệt lắm chớ chẳng chơi ! Cho nên, chúng tôi ngồi im thin thít, chẳng dám hó hé. Mặc cho số phận !
Nhiệt độ trong hầm càng lúc càng tăng theo ánh nắng mặt trời, thời gian càng lúc càng dài ra. Trong bọn tôi có nguời vì sức yếu ngã lăn ra xỉu. Như cái cớ chúng tôi đồng thanh la lớn; “ có nguời bị xỉu rồi có nguời chết rồi, mở nấp hầm ra. Cứu nguời ! Cứu nguời ! Nghe chúng tôi la một thằng đi tới hỏi: Tụi bây muốn chết hả ? Chúng tôi trả lời;

- Có nguời xỉu rồi mang nó lên.. Không thôi nó chết !

Đưa nó lên đây.

-Chúng tôi bị trói rồi làm sao đưa nó lên đuợc ? Hắn ta đưa xuống một cái thang chỉ nguời leo cho hắn cởi trói, xong leo xuống đem nguời bị xỉu đưa lên khỏi hầm. Hắn toan đậy nấp hầm lại, chúng tôi năn nỉ hắn đừng đậy. Chúng tôi cần không khí, ngộp thở lắm đậy lại chúng tôi chết ngộp mất. Những lời cầu xin chân thành của tụi tôi làm rúng động lòng “từ bi “ của hắn, hơn nữa ở duới nầy làm sao leo lên được nếu không có cái thang ? Suy nghi một hồi hắn bỏ đi mà không đậy nấp hầm lại. Cảm ơn Bồ Tát. Cảm ơn anh công an nhân dân tốt bụng!

Có lẽ quá trưa, mặt trời qua khỏi đỉnh đầu khá lâu. Một chị trong tàu chúng tôi đến bên miệng hầm nói khẽ: Mấy ổng muốn nói chuyện với ai là tài công kìa! Mọi nguời đưa mắt nhìn tôi, buột miệng tôi nói: “ Nhìn, nhìn cái gì, mấy cha cũng biết tàu mình bị bọn tổ chức gạt, lúc đó không có tài công tôi nhận cầm lái đưa mấy cha đi chớ tôi đâu phải tài công tài kiết gì mà nhìn tôi như vậy”? lúc đó tôi nghĩ, nếu nhận mình là tài công, leo lên nó “giậm” cho một trận mềm nhu trái chuối chớ chẳng phải chơi.

Thấy tôi không nhận chị ta nói tiếp:

-Mấy ổng muốn thả mình đi… nhung phải có đại diện tàu đễ họ nói chuyện. Đại diện. ở đây ai đâu là đại diện, thôi thì thế nầy. Tôi nói: -Tôi đi nhưng phải có anh Hồng cùng đi với tôi vì anh Hồng là nguời lớn tuổi . Mọi nguời đồng ý. Anh Hồng, tôi hai nguời cùng leo lên khỏi hầm. Gió ùa thổi tát vào mặt. Tôi có cảm giác như mình vừa thoát chết, hay ít ra khỏi chết trong cái hầm giòi ngột ngạt. Còn đang đê mê huởng thụ hít thở khí trời thì nghe có tiếng nói khẽ bên tai. Hai anh hãy lấy quần áo mặc vào ! Quay đầu lại. Giật mình ! Hắn, thằng có guong mặt xấu xí với hàm răng mã tấu, đặc biệt với giọng nói bắc kỳ. Giọng nói nầy tại sao lại khác hẳn với buổi sáng khi chúng mới bắt tôi vậy kìa? Có phải tôi lầm chăng ? Nhìn mặt hắn, nhìn xuống “hạ bộ“ mình, không kịp suy nghi nữa tôi buớc tới đống quần áo mà bọn chúng lấy từ tàu của chúng tôi qua chọn đại một bộ mặc vào. Xong đâu đó tôi hỏi hắn; Anh có thể cho tôi xin miếng nuớc đuợc không ? Đuợc chớ! Hắn bỏ đi một hồi trở lại trên tay xách một xô nuớc và nói: ” Nè. Uống đi uống xong đua xuống cho mấy nguời kia với.”

Làm theo lời hắn tôi nốc một hoi chuyền tay cho anh Hồng, xong tôi xách xuống bên hầm nói lớn.

Ê. Nuớc cam lồ đây uống đi, uống xong để khỏi chết mà đi tiếp. Mọi nguời lao xao hỏi.

- Mấy ổng cho đi hả ?

Tôi trả lời: Không biết nữa, có thể, chua nghe nói gì hết!

Quay trở lại chỗ củ ngồi xuống kế bên anh Hồng. Hắn hỏi:

- Hai anh là đại diện tàu phải không? Tôi đưa mắt nhìn anh Hồng, anh Hồng nhìn tôi và trả lời;

- Vâng. Anh em cử tôi là đại diện.Vậy quý anh quyết định nhu thế nào tôi sẽ nói lại cho mấy anh em ấy biết.

Đúng ra, bắt các anh chúng tôi sẽ giải giao các anh về công an tỉnh Minh Hải. Chúng tôi không muốn các anh bị tù, ( nhân đạo gớm ! ) chúng tôi sẽ thả các anh đi. Nhưng với điều kiện là lấy lại tất cả những gì mà các anh đã mang theo. Mẹ kiếp ! Như vậy là ăn cuớp rồi chớ còn gì nữa ?! Tôi nói thầm trong bụng.

Sau khi hắn dứt lời anh Hồng quay qua hỏi tôi:

-Sao. Ý mấy ổng nhu thế em nghĩ thế nào ?

- Nghĩ với ngợi gì nữa, mấy ổng thả thì mình đi chẳng lẻ kêu mấy ổng bắt bỏ tù mình ? Anh Hồng nói với hắn:” Anh quyết định như vậy anh em chúng tôi vô cùng cảm ơn. Còn những gì của chúng tôi các anh cứ tùy nghi sử dụng.”

Nếu các anh đồng ý như thế thì tôi đem mấy nguời kia lên và thả các anh đi.

Lần luợt từng nguời được đưa lên khỏi hầm tuy tay vẫn còn bị trói. Sau đó hắn ra lệnh mọi người ngồi xuống để cho thủ hạ hắn xịt nuớc biển tắm cho sạch giòi bọ. Lúc đó tôi chợt khám phá ra một điều. À…! Thì ra, con nguời, nguời nào nguời nấy đều giống nhau. Có khác nhau chăng chỉ là bộ quần áo, cách ăn mặc, họ trang điểm cho mình khác hơn nguời để nguời khác nhìn vào thấy mình cao quý, đẹp đẽ, sang trọng, ngoài các thứ ấy ra mọi nguời đều xấu, xấu hơn tất cả những con thú, vì con thú khi sinh ra tự nó có những bộ lông để che đậy những chỗ mà nó không muốn cho ai nhìn thấy. Còn con nguời.. .Và nguời.. . “cộng sản“, những nguời tự cao tự đại tự cho mình là “ đỉnh cao trí tuệ loài nguời”… họ nhân danh công lý, bình đẳng là “ đầy tớ của dân “ là công an đuợc huấn luyện với “tư tuởng vĩ đại“, chỉ vì muốn cuớp đi hành trang của chúng tôi, những người chạy nạn, họ mạt sát, hành hạ chúng tôi nhu môt con vật. Thử nhìn lại xem, họ với chúng tôi có khác nhau chăng? Cũng họ Trần, họ Lê, họ Nguyễn, cùng là dòng máu Việt Nam chung một mẹ Âu Cơ. Chủ Nghia nào, tư tuởng nào đã làm cho họ mù mắt để rồi họ đối xử với chúng tôi, những nguời Việt Nam như vậy ? Tắm cho mọi nguời xong hắn ra lệnh ngồi xuống để nghe hắn đọc quyết định. Mọi nguời lắng nghe, hắn liền lên giọng: “ Theo chỉ thị của Công An Nhân Dân ( lại muợn danh nhân dân ) tỉnh Minh Hải, tất cả tài sản của nhân dân các anh lấy mang đi chúng tôi phát hiện được nên có phải lệnh thu hồi. Còn riêng các anh vì không muốn ở lại để xây dựng đất nuớc, trốn đi, bắt được, lý ra cần phải cải tạo. Nhưng vì tánh nhân đạo của đảng, Thay mặt đảng ủy chúng tôi thả các anh đi vì giữ lại, các anh sẽ không thể nào trở thành nguời công dân tốt được!

Trời đất ơi, Ngó xuống mà coi, bọn chúng vừa ăn cuớp vừa chửi cha làng nuớc kìa! Thì ra… trong thâm tâm bọn nguời cộng sản họ xem chúng ta: Nguời dân miền Nam là công dân hạng bét, bởi vì ở miềm Nam nầy cây cột đèn mà có cánh nó cũng bay tuốt khỏi thiên đường của chúng!

Xin quý vị đùng thắc mắc tại sao báo chí và đài phát thanh của Việt cộng những năm 75- 80... ngày đêm ra rã, sỉ vã chúng ta : Những người vượt biển là “bọn liếm gót giầy đế quốc“, “bọn đỉ điếm, lười lao động”…

Chúng ta chỉ trả lời được với bọn cộng sản khi nào chúng ta, nguời vuợt biển tị nạn cộng sản vung tay lên hành động, chống lại cái ác, cái phi nhân mà bọn CS đặt đè trên đầu trên cổ nhân dân Việt nam. Còn bằng không, sự im lặng, thụ động của chúng ta, là mặc nhiên chấp nhận sự mạ lỵ phỉ nhổ mà bọn CS chúng trơ trẻn gán ép.

Khẩu lệnh đọc xong, từng nguời được cởi trói đi đến đống quần áo của mình chọn một bộ, mặc vào. Sau đó, lập tức bị đuổi về tàu của mình. Buớc về , cảnh tuợng đầu tiên mà tôi nhìn thấy là hai miếng ván kèm thêm hai bên “be” cho tàu cao để nhảy sóng đã bị bể lìa, quật lên quật xuống nhu cái vòi con voi. Còn cái mui ghe đóng hai lớp chứa thực phẩm để qua mắt công an biên phòng cửa biển, bị bổ bung ra. Com khô, gạo thức ăn đem theo họ quăng đổ tứ tung, trộn lộn cùng nuớc biển. Nhiên liệu bọn họ chỉ chừa lại bốn mươi lít. Bốn mươi lít dầu để vuợt qua 350 Km đuờng biển để đến được bờ biển Thailand !? Có phải chăng họ muốn muợn giông tố biển cả để giết chúng tôi ? Câu hỏi nầy được đặt ra chỉ có những tên công an trên hai chiếc tàu mang bản số Tiền Giang 901- 903, chúng mới có thể trả lời được.(?)

Mãi đến mặt trời sắp lặn họ mới tháo dây ra, bắn một loạt súng và bảo chúng tôi được phép ra đi.

Biển đêm, dầu thiếu, không lương thực. Một số đoi quay trở lại, một số nhất quyết ra đi tiếp tục, mọi nguời còn đang giằng co quyết định chua ngã ngũ thì đột nhiên cái máy ngưng chạy vì quên châm dầu. Đổ thêm dầu mới, chúng tôi thay phiên nhau quay, quay mãi cái máy vẫn êm ru. Như thế là xong! Khỏi bàn, khỏi cải, khỏi đi và cũng khỏi về. Mọi sự do trời quyết định!

Trôi lênh đênh bốn ngày bốn đêm với một ít nuớc và thực phẩm, mọi nguời rã ruợi vì sóng biển, chỉ còn lại một số ít nguời đủ sức ngồi cầm lái, nương theo sức gió để đi. Đến ngày thứ năm, một nguời bỗng nhiên la lớn. Có tàu, có tàu rồi. Nhìn lại từ xa có một chấm đen giữa biển. Đốt lửa ! Đốt lửa lên ! Tôi liền cởi cái áo duy nhất mặc trên mình nhúng vô dầu đốt lên. Thấy khói, chấm đen càng lúc càng gần, từ từ hiện rõ đó là một chiếc tàu đánh cá Thailand. Mọi nguời kêu cứu. Họ cho cập tàu vào. Vị thuyền truởng buớc ra hỏi bằng tiếng Việt. Tiếng nghe đuợc, tiếng không nhưng chúng tôi cững hiểu. Chúng tôi trả lời rằng đi đã bốn năm ngày rồi và  bị công an CSVN bắt. Ông ta cho biết rằng đã từng ở tù CSVN nên ông rất hiểu và thông cảm, nhưng vì mới khởi hành nên không thể kéo tàu chúng tôi vào Thailand được, có yêu cầu gì thì sẽ giúp cho. Chúng tôi cho biết tàu không chạy được, hết lương thực và thiếu dầu.Ông ta nói. Được! Ông ta sẽ giúp. Sau đó ông kêu mọi nguời lên tàu và nấu cơm cho ăn. Trong khi mọi nguời chờ cơm thì thợ máy của họ xuống tàu chúng tôi sửa hộ. Cuối cùng thì cái máy ù lì cũng chửa được. Mọi nguời vỗ tay hoan hô nguời thợ máy. Niềm vui chưa dứt, vị thuyền truởng cho biết rằng bọn họ phải đi. Gương mặt mọi nguời bí xị, một số nguời bật khóc vì không muốn rời trở về tàu của mình. Truớc khi chia tay họ còn cho thêm một bao cơm và một trăm lít dầu, vị thuyền truởng còn đưa chúng tôi vào phòng lái, chỉ huớng và cho biết đi tiếp tục hai ngày nữa là sẽ đến bờ. Xin cảm ơn những nguời bạn Thailand, xin cảm on sự giúp đỡ đày ấp tình nguời mà các bạn đã dành cho chúng tôi. Những nguời tị nạn cộng sản bơ vơ trên biển ngày 5/5/1981.

Biển yên sóng lặn đuợc một ngày một đêm, đến ngày hôm sau sóng gió tự nhiên kéo đến ùn ùn, mưa nuớc như cầm hũ mà đổ. Sóng quăng tàu chúng tôi qua bên nầy, thẩy bên kia. Cái máy “đuôi tôm” xơ cua ( không chạy được vì bị bọn chúng lấy hết xăng ) rơi tuốt xuống biển làm tặng vật cho hà bá. Nuớc, nuớc, mọi nguời thi nhau tát nuớc, tiếng la tiếng khóc tiếng gọi cha, gọi mẹ, gọi Trời, gọi Phật. Nguời công giáo thì đọc kinh Đức Mẹ, người đạo Phật thì khấn Đức Quan Thế Âm, kẻ khấn tới bờ ăn chay ba tháng, nguời nguyện tới nơi cạo đầu ăn chay truờng vĩnh viễn. Riêng tôi, vì không phải Đạo Chúa, cũng chẳng có “quy y “ chỉ biết ở nhà có bàn thờ, thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên cho nên tôi khấn; “Ông bà ông vãi, tổ tiên thần thánh, những nguời chết bụi, chết bờ, chết sông, chết núi, những chiến si trận vong những nguời chết trận, chết ở đầu gành, chết oan giữa biển có linh thiêng phù hộ cho chúng tôi qua khỏi con giông nầy đưa tàu đến bờ được bình yên thì tôi cúng một con heo. Không biết vì tôi khấn cúng con heo hay vì “ hoảng” quá mà kêu gọi nhiều nguời nên con giông từ từ nhẹ gió, chỉ còn lại những con sóng luợn đưa tàu chúng tôi đi. Chúng tôi nhắm huớng mặt trời lặn nếu là ban ngày, còn ban đêm nhìn Sao Nam Thập định huớng để đi. Đi như thế, một ngày một đêm rạng sáng hôm sau mắt nguời nhìn thấy bờ biển đã hiện ra truớc mắt. Mọi nguời như được hồi sinh! Tôi cầm lái đâm thẳng vào bờ, mọi nguời ù chạy lên bờ như bị ma đuổi. Riêng tôi, anh Hồng, hai nguời vẫn loay hoay đi tìm cây búa. Tìm được chúng tôi thay phiên nhau bửa một lổ lớn cho ghe vô nuớc. Chiếc ghe từ từ chìm xuống. Quăng cây búa xuống biển, anh em chúng tôi tà tà lội lên bờ. Lên bờ, tôi buớc đi và có cảm giác như mình đang say ruợu. Chúng tôi đã bảy ngày bảy đêm lênh đênh trên biển.

Như người tị nạn nhập trại. Tôi cũng đưọc cấp số”S” số”T” ( Song khla Thailand ) Thực phẩm tuy không đủ ăn cho một nguời nhung năm bảy anh em “con bà phuớc” như nhau ăn chung nên cung tạm đủ. Ở tạm thôi mà ! Có ăn đời ở kiếp đây luôn đâu mà lo, mà bận tâm cho mệt!. Nghĩ thế cho nên tôi cố đi học tiếng Anh để mai mốt định cư có một chút “vốn” mà xài. Tính là tính như vậy nhưng thực tế khi học tiếng Anh thì còn khó hơn lên trời. Mỗi lần phát âm thì phải bẻ mồm, bẻ miệng, học có mấy chữ mà học hoài chẳng nhớ, nhớ chuyện đâu đâu. Thôi thì, đi ra bờ biển ôm đầu để …nhớ. Nhớ mấy công ruộng, mấy công vuờn, nhớ tháng nầy năm ngoái cùng với mấy thằng bạn “ vần công” lấy thân cây chuối đống thành cây bừa kéo bừa thay trâu đễ bừa đám mạ. Ông già hiện giờ đang bệnh rề rề, rồi ai “lòi” mạ cho nguời ta cấy, nhớ mấy đứa em còn nhỏ có ông anh đi vuợt biên học hành có bị ảnh huởng gì không ? Còn cái thằng công an thuờng ngồi ngay cái quán ngang nhà nhìn vào nhà như mèo rình chuột, cái thằng mỗi kỳ lễ lạc của tụi Việt cọng đều mời tôi đi học tập “chính sách” vì bọn chúng cho rằng tôi là một trong những thành phần ”cản bánh xe lịch sữ“ ( nguyên nhân tôi cùng một số bạn cạo đầu ngày bọn chúng vô “tiếp thu” và thuờng hay đánh nhau với bọn du kích 30/4 ) còn rình rập nữa không ? À…Còn nguời yêu của tôi nữa chứ! Không biết bây giờ cô nàng ra sao, có nhảy xuống sông Trèm Trẹm trầm mình hay đang hú hí với tên “bị dịch” nào cho đỡ nhớ tôi? Nhớ, nổi nhớ cứ tuần tự kéo tới, cứ dầy xéo tâm tư cho mãi đến …hôm nay.
Cuối cùng thì ngày định cư cũng đến. Và tôi được đưa về tiểu bang Texas, thành phố Austin. Austin là một thành phố nhỏ, nguời Việt cư ngụ lúc đó khoảng hơn ba ngàn, tập trung phần đông ở hai vùng, Bắc và Nam của thành phố. Vì là thành phố nhỏ cho nên mọi nguời đều biết mặt nhau nên dễ thông cảm và giúp đỡ những nguời mới đến. được sự giúp đỡ, tôi cũng có việc làm, lương không cao, nhưng đủ sống, có dư chút đỉnh thì dành dụm gởi về giúp gia đình còn kẹt tại Việt Nam. Cuộc sống ảm đạm ngày hai buổi đi, về. Năm ngày một tuần hai ngày cuối tuần còn lại kéo năm ba thằng bạn cùng nhau… “nhậu” ! Nhậu để kể chuyện Việt Nam, chuyện vượt biên, chuyện trai gái tào lao, bá láp…. Chấm hết ! Chẳng giúp gì cho ai mà cũng chẳng giúp gì được cho mình.
Mãi tới đầu năm 1983. Cộng đồng tị nạn tại đây tổ chức mừng tết Nguyên Đán. Đây là lần đầu tiên tôi đi tham dự. Dịp nầy có một số đoàn viên của một tổ chức kháng chiến về đây phụ giúp chưong trình văn nghệ. Truớc khi mở màn chương trình văn nghệ và bài diễn văn của ông chủ tịch cộng đồng là phần nghi lễ chào quốc kỳ. Lần đầu tiên chào lá quốc kỳ sau bao năm vắng bóng, nhìn lá quốc kỳ tôi bật khóc, khóc cho lá cờ, khóc cho quê huong, khóc cho nguời ở lại và cũng khóc cho chính bản thân tôi. Nguời bị mất quê hương! Sau màn văn nghệ rực lửa đấu tranh. Kết thúc buổi lễ, những đoàn viên kháng chiến ngỏ lời mời những ai còn còn quan tâm với đất nuớc, còn trăn trở với quê hương hãy ở lại để cùng nhau bàn bạc, tìm giải pháp giải cứu quê hương cho một ngày về, về lại quê cha sống cùng đất tổ. ( nghe dễ sợ chưa! )
Vừa nghe xong mấy bản hùng ca, giờ lại nghe mấy anh đoàn viên mời ở lại xăn tay áo lên đánh tụi Việt cộng. Máu nóng trong tim ùn ùn sôi sục… tôi ghi danh liền ! Nhiệm vụ đầu tiên tôi được giao là bán báo Kháng Chiến, mỗi tháng 50 tờ mỗi tờ 1 đồng, nhưng cái thằng cha Lê văn N. của tổng vụ tài chánh “ chơi đểu”, mỗi lần gởi tôi tới 100 tờ, bán nài, bán ép cho những nguời quen được chừng 3/40 tờ gì đó, còn bao nhiêu bán không hết thì “ ôm luôn”. Nhịn ăn, nhịn nhậu để có tiền lo cho mấy anh chiến sĩ ở biên thùy cũng là điều tốt ! Công việc đang ngon ơ.. . ! Thanh niên sinh viên kéo tới nuờm nuợp. Kháng chiến nổi danh như… cồn.! Bụng bảo dạ… “ phen nầy tụi Việt cộng hết đường chạy rồi. khà… khà !!! Chẳng những chúng ông có muời ngàn tay súng, mà rồi sẽ có tới trăm ngàn. Tụi tao sẽ chiếm Tây Ninh, Châu Đốc làm bàn đạp tiến về Sài gòn. Tụi Việt cộng chúng bây hết đường chạy rồi…. chuẩn bị tàu ghe vượt biên qua Nga Sô là vừa!   Đùng !…một cái. Điện thoại gọi đến bảo: “ Không họp hành, bán báo, gây quỹ cống lon gì hết ! Kháng chiến bể, bể làm hai rồi !” Trời ơi! Thế nầy là thế nào? Tôi than, tôi khóc, khóc thật sự. (không hiểu sao tôi dễ khóc nhu thế) khóc nhu thằng bé được nguời ta cho chiếc bong bóng trong ngày sinh nhật bị thằng láu cá đâm xì. Tôi xẹp xuống, tôi nằm luôn, không đi đâu cả. Vắt tay lên trán suy nghi: Tại sao họ cuớp đi hy vọng, chẳng những của tôi, mà còn của bao nhiêu nguời khác nữa !? Tôi biết có một cụ bà, trong ngày lễ thuợng thọ tám mươi, con cháu gom góp cho cụ, cộng với số tiền già cụ dành dụm được cả thảy hai ngàn (2000 Đôla) Cụ dùng số tiền hai ngàn đô la đó góp cho kháng chiến, mong sau nầy kháng chiến thành công để được chôn cốt xương của mình trên mảnh đất quê hương. Cụ bà: Huỳnh Thị lý, tôi luôn luôn nghi đến cụ trong nổi xót xa và lòng sục sôi truớc những tên lừa đảo.
Hy vọng vào tổ chức đã tan, nhưng niềm tin vào tương lai dân tộc vẫn còn. Tôi tin tuởng chắc chắn rằng, chế độ cộng sản bất nhân rồi sẽ sụp đổ, quyền sống con nguời sẽ được dựng lên và tôi sẽ là chứng nhân của lịch sữ !
Chuyện cũ nầy xin đuợc kể ra như là một bài học của một kẽ đã “trao duyên lầm tuớng cuớp”.Mong rằng những ai muốn dấn thân vào con đường phục vụ hãy quan sát kỷ “tổ chức” “ hội đoàn” mà mình muốn tham gia. Nghị quyết 36 của Việt cộng với kinh phí lên đến hàng chục triệu Mỹ kim mục đích cho việc xâm nhập cộng đồng nguời Việt hải ngoại. Mục tiêu của chúng là các cơ sở văn hóa, các lớp học Việt ngữ, hội đoàn, tổ chức từ thiện. Không minh định rõ ràng lập truờng quốc gia dân tộc. Những cơ sở nầy Vc dễ “ lồng” vào lôi kéo, lèo lái xa rời lý tuởng ban đầu, cuối cùng tạo thành những cơ sở trực tiếp hay gián tiếp cho bạo quyền Việt cộng hầu phá nát cộng đồng nguời Việt quốc gia. Chúng ta phải thật cẩn thận, nếu không, sẽ làm vẩn đục ý nghia hai chữ tị nạn mà ta đã, đánh đổi bằng cả mạng sống của mình!,
Lịch sử dân tộc khi thăng khi trầm, lúc huy hoàng tự chủ, khi phải sống duới sự thống trị của bắc phương, thời thì bị thực dân đô hộ. Nhung ! Chưa thời đại nào nguời dân Việt cực kỳ thống khổ như thời đại nầy! Thời đại Hồ Chí Minh: Phẩm giá con nguời bị đem ra bán rẻ. Trai thì bị đày đi nô lệ xứ nguời, gái bị bán làm thú mua vui nơi đất khách. Đất nuớc thì cắt dâng cho kẻ thù truyền kiếp ! Nổi nhục nầy làm sao xóa đưọc !? Xã hội thì tội ác tràn lan, đạo đức suy đồi. Kẻ có quyền tha hồ tráo trở bóc lột.
Chốn thờ tự tôn nghiêm như đền chùa miếu mạo thì được bán “ on sale” qua hình thức lễ hội để lấy tiền bỏ túi. Hồ chí Minh - tên tội đồ của dân tộc thì được “tạc tuợng” mang lên thờ cúng ( tại một ngôi chùa ở Bình Duong ) ngồi cùng chư Phật. Tôn giáo chỉ được xem như là công cụ phục vụ tà quyền. Nguời còn lương tri can ngăn thì bị khủng bố, trù dập, bỏ tù một cách vô tội vạ.!
Thành ngữ Việt Nam ta có câu: “ Tức nuớc vỡ bờ“. Các Mác tên tổ sư của cộng sản cũng từng nói: “ Noi nào có áp bức thì nơi đócó đấu tranh”
Sau ngày 30/4/ 1975. Khi đoàn quân cộng sản với xe tăng và đại pháo ủi sập dinh Độc Lập, nơi biểu tuợng cho nền tự do “ non nớt “ của chúng ta, thì nguời dân miền Nam không bao giờ ngưng nghỉ đứng lên giành lại quyền tự do mà mình đã mất. Khát vọng tự do giờ đây đã không còn nằm trong phạm vi của nguời dân miền Nam. Khát vọng thiêng liêng đó đã lan rộng và hội tụ trong tâm não của từng con nguời Việt Nam hàng ngày hàng giờ. Tự do dân chủ và quyền sống là khát vọng của hon 86 triệu đồng bào trong cả nuớc, kể cả những nguời một thời lầm lỡ đa nghe và tin theo cộng sản. Những tiếng nói lương tri đã đồng loạt cất lên: Phật Giáo, Phật Giáo Hòa hảo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài…hòa cùng tiếng nói và hành động của mọi tầng lớp nhân dân: Nông dân, công nhân, sinh viên học sinh, văn nghệ si trí thức, cựu cán bộ cộng sản. Đặc biệt hành động cho tự do dân chủ nhân quyền cho đất nuớc chúng ta có hai truờng hợp  được xem là “ tiêu biểu” cho hai thế hệ của hai miền Nam, Bắc đáng để cho chúng ta, những nguời tị nạn cộng sản cần suy gẫm.
1 - Trương Văn Sương. Cựu Trung Úy quân lực VNCH, quê tại Sóc Trăng bị bắt về “ tội” phục quốc từ năm 1977. Sau nhiều năm bị CS giam giữ, cộng sản mời lên bắt ký giấy “nhận tội” thì chúng sẽ thả, Anh đã cương quyết không nhận tội ( nếu ký nhận tội thì được thả cách đây gần 20 năm) Hiện nay anh bị giam giữ tại trại tù K 1 Xã Ba Sao, Huyện Kim Bảng. Hà Nam. Việt Nam. Bất khuất thay!
2- Lê Thị Công Nhân. Nữ Luật Sư, trí thức trẻ sinh ra lớn lên tại miền Bắc, trong chế
độ cộng sản, ( sinh ngày 20/7/1979 ) Tương lai của chị thật sáng lạng nếu chị cúi đầu thuần phục cuờng quyền. Không ! Là luật sư, chị không thể nhắm mắt truớc bất công của cả một dân tộc đang sống duới sự chà đạp nhân phẩm, nhân quyền của lủ cầm quyền gian ác.
Là một trí thức, chị không thể nào cúi mặt làm ngơ truớc tương lai đất nuớc đang bị hủy diệt trong tay bọn nguời cộng sản. Chị đã lên tiếng...và chị vào tù. Truớc khi vào tù chị tuyên bố và nhắn gửi với chúng ta là chị không bao giờ khuất phục truớc cuờng quyền CS . Hiện nay chị bị giam giữ tại trại giam: Phân trại 4, Trại giam số 5. Yên Định, Thanh Hóa. Việt Nam.
Ngày Ba mươi tháng Tư lại về với chúng ta ! Thêm một ngày. Quê hương Việt Nam thêm một ngày rỉ máu ! . Nhìn lại, Anh, Tôi chúng ta đã làm gì cho đất nuớc?
Khoan !!! Xin đừng “đổ thừa” cho rằng nguời Việt hải ngoại “không đoàn kết” để rồi thụ động ngồi chờ “lãnh tụ“ xuất hiện và rồi sẽ bị “lợi dụng” khi tham gia vào công việc giải trừ quốc nạn.
Kỷ nguyên nầy là kỷ nguyên tin học. Với “vũ khí” internet chúng ta có thể tấn công bạo quyền Việt cộng bằng mọi mặt, từ văn hóa, kinh tế, ngoại giao, chính trị, truyền thông báo chí v.v…và.vv… Và chỉ cần mỗi nguời trong chúng ta mỗi ngày mỗi tuần mỗi tháng một lần gửi về quê hương một bài báo, bài viết bình luận, tin tức, tài liệu về tự do dân chủ nhân quyền đến nguời dân trong nuớc hoặc vận động các vị dân cử nơi mình sinh sống, yêu cầu họ quan tâm hơn nữa đến tình trạng nhân quyền tại Việt Nam qua hình thức trực hay gián tiếp như thư từ hoặc e-mail. E-mail chúng ta có thể dùng “ vũ khí” nầy để phá thủng bức tuờng bưng bít của Vc. Đưa những tin tức về tự do dân chủ nhân quyền của thế giới văn minh đến đồng bào trong nuớc. Và từ đó đồng bào chúng ta hiểu rỏ hơn về bản chất dối trá, gian manh của Vc mà quên đi sợ hãi, đứng lên cùng với những lực lượng dân chủ tiến bộ trong nước giải trừ chế độ độc tài cộng sản đã đè nặng hằng hơn nữa thế kỷ qua trên quê hương khốn khổ của chúng ta.
 Xin Thưa ! Với việc làm chủ động nầy chính chúng ta đã là “ lãnh tụ “. Và chúng ta cũng đã thực hiện sự đoàn kết trong đấu tranh mà không phải “ đoàn kết sau lưng chúng tôi” hơn nữa chúng ta cũng chẳng phải sợ ai lợi dụng.Với tấm lòng đau xót vì dân tộc. Vô số cách làm chúng ta có thể hành động. Vì muôn đời con cháu chúng ta, vì tương lai của đất nước. Bằng mọi cách chúng ta  đoàn kết, tuy nhiên chúng ta không thể đoàn kết được  với  những tổ chức “cuội“ chuyên sống bằng nghề luờng gạt thiên hạ.
Câu hỏi đầu tiên chúng ta cần đặt ra với tổ chức cuội đó là: Tiền đâu ? Có nghia là, tổ chức đó phải minh bạch về tiền bạc, ít ra với tất cả thành viên trong tổ chức, khi nói về tổ chức có sự đóng góp của thành viên. Còn về những tổ chức Từ Thiện hay Cộng Đồng, có tiền đóng góp của “bá tánh”, nếu họ không công khai hóa được tài chánh truớc đồng hương… thì y như rằng: Đồng hương nơi đó bị luờng gạt và “tổ chức từ thiện” đó chỉ là tổ chức “dỏm”, không lương thiện và đồng hương nơi đó đã bị lợi dụng, ít ra trên danh nghĩa và bị cầm đầu bởi một đám… lưu manh .
Học hỏi những kinh nghiệm từ những bài học đau thương còn hằn sâu trên thân thể. Chúng ta. Nguời Việt hải ngoại có thừa kinh nghiệm, sáng suốt để đưa dân tộc thoát khỏi đường hầm tối tăm của chủ nghia cộng sản.
Vậy chúng ta còn chần chờ gì ??? Hãy hành động, Xin hành động , đừng nên thụ động ngồi chờ, mà nguyền rủa bóng tối ! Khởi đầu bằng những việc làm nhỏ bé, dần dần sẽ thấy được tình yêu quê hương của chúng ta vô cùng cao quý. đừng vì so đo ích kỷ mà quên đi 86 triệu nguời dân Việt Nam đang sống duới bàn tay của bọn cộng sản vong nô.
Một ngày chúng ta “chờ đợi” là một ngày nguy cơ mất nuớc. Biên giới, hải đảo máu xương của ông cha bao đời tạo dựng đã rơi vào tay Trung Cộng. Tây Nguyên “ xương sống” của Việt Nam, quân đội Trung cộng trá hình hiện giờ đang chiếm đóng và khai thác tài nguyên… Và rồi đây, đất nuớc chúng ta sẽ trở thành quận, huyện của dân tộc đại hán. Vậy thử hỏi. Còn chỗ nào cho chúng ta đắp chiếu trùm chăn ???
-Nguời vượt biển tị nạn Cộng Sản năm nào giờ ở nơi đâu ?!
Dân tộc Việt khổ đau và bất hạnh vì ách nạn Cộng sản ngày đêm đang mong chờ chúng ta.


Nguyễn Hà Tịnh. Portland Oregon  3/ 2009.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét