Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

Cơ chế bảo hiến: Phải có sự tham gia của nhân dân lao động

Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp

                    

Về thuật ngữ, bảo hiến là bảo vệ hiến pháp. Vì sao phải bảo vệ hiến pháp?

Có hai lý do. Thứ nhất, hiến pháp quy định những việc quan trọng của quốc gia, mà quan trọng nhất là các quyền tự do cơ bản của người dân; những nguyên tắc cơ bản của chế độ, hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động của ba nhánh quyền lực nhà nước là lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như những cơ quan quan trọng nhất của nó. Thứ hai, hiến pháp là luật cơ bản của một quốc gia, những gì mà hiến pháp quy định có hiệu lực pháp lý cao nhất. Nói một cách hình ảnh, hiến pháp giống như nền móng, rường cột chính của một tòa nhà, mà nếu làm tổn hại thì sẽ làm cho tòa nhà dễ bị suy sụp, đổ vỡ.


Tuy vậy, hiến pháp vẫn bị vi phạm bằng nhiều cách, dưới nhiều hình thức khác nhau. Có những đạo luật chứa những quy định vi hiến. Có những hành vi, quyết định của cơ quan hành pháp hay tư pháp trái với hiến pháp. Do tầm quan trọng của hiến pháp và do tình trạng vi hiến vẫn tồn tại, mỗi quốc gia đều quan tâm xây dựng một cơ chế bảo vệ hiến pháp hữu hiệu, với những công cụ và phương pháp thích hợp tùy hoàn cảnh mỗi nước. 

Công cụ đầu tiên là chính bản hiến pháp, với những quy định tự bảo vệ rất chặt chẽ. Ví dụ, quy định về hiệu lực tối cao của hiến pháp. Điều 146, Hiến pháp 1992 quy định:” Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Việc thay đổi hiến pháp cũng được quy định rất khắt khe. Ví dụ: phải được 2/3 số nghị viên yêu cầu, nghị viện thông qua, sau đó đưa ra toàn dân phúc quyết, như Hiến pháp 1946; hoặc phải được 2/3 tổng số đại biểu quốc hội biểu quyết tán thành, như Hiến pháp 1992 của nước ta. 

Công cụ thứ hai, ở nhiều nước, là một cơ quan bảo hiến có thẩm quyền giám sát việc tuân thủ hiến pháp và hành động để chấm dứt hành vi vi hiến. Hình thức cơ quan bảo hiến khá đa dạng, tùy hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm chính trị của từng nước. 

Tất nhiên, còn có thêm những công cụ và phương pháp khác, tùy từng quốc gia. Quân đội, công an cũng là những lực lượng bảo vệ hiến pháp, chống lại các hành vi xâm phạm an ninh, chủ quyền quốc gia, đe dọa nền tảng của chế độ, hay hành vi khủng bố. Ở Đức, cục tình báo của Đức có tên là Cục Bảo vệ Hiến pháp, có quyền hạn chế các quyền tự do cơ bản của công dân (tất nhiên, phải theo luật và được quốc hội giám sát nghiêm ngặt). Ba nhánh quyền lực của nhà nước đều có nhiệm vụ tuân thủ hiến pháp và giám sát lẫn nhau trong việc tuân thủ hiến pháp. Các đại biểu quốc hội hoặc các ủy ban của quốc hội đều có chức năng và thẩm quyền giám sát việc tuân thủ hiến pháp và hành động khi phát hiện hành vi vi hiến. 

Cuối cùng, nhưng lại là điều quan trọng nhất, là thẩm quyền và năng lực bảo vệ hiến pháp của công dân, mà phần lớn là người dân lao động trí óc và chân tay. Theo các nghị quyết, cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp 1992, nhân dân là người chủ thực sự của quyền lực nhà nước, cũng có nghĩa là người chủ của hiến pháp. Thông qua quốc hội, nhân dân xây dựng và ban hành hiến pháp để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cũng bằng hiến pháp, nhân dân thiết chế một nhà nước phục vụ cho lợi ích của mình, vì thế nhà nước còn được gọi là công bộc (đầy tớ công). Thông qua hiến pháp, nhân dân trao cho nhà nước một số quyền lực, và giữ lại cho mình một số quyền lực, như quyền phúc quyết những vấn đề hệ trọng quốc gia, quyền phúc quyết sửa đổi hiến pháp, và nhất là quyền bầu cử - ứng cử dân chủ, tự do để thay đổi nhà nước nếu nhà nước yếu kém hay làm hại cho dân. 

Trong mối quan hệ dân - nhà nước, Hồ Chí Minh đã từng huấn thị:

"Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân…. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh" (thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng- báo Cứu Quốc số ra ngày 17.10.1945). "Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa" (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Sự Thật, trang 283).

Một cơ chế bảo hiến thực sự dân chủ, ngoài những công cụ bảo hiến của nhà nước, đa số nhân dân phải được quyền giám sát việc tuân thủ hiến pháp, quyền tố giác và yêu cầu chấm dứt những hành vi vi hiến của của các “công bộc” phản động độc tài, nhất là khi các quyền tự do cơ bản của mình bị xâm phạm. Đây là lý do mà mọi hiến pháp ở các nước dân chủ, văn minh đều quy định nhân dân có quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tụ họp hòa bình cùng với những quyền tự do khác. 

Những quyền tự do cơ bản ấy không có gì xa lạ mà chính là những quyền con người được công nhận tại Thỏa ước quốc tế về các Quyền dân sự và Quyền chính trị của Liên Hợp Quốc có hiệu lực từ năm 1976 mà Việt Nam đã tham gia từ 24.9.1982. Nội luật hóa những quyền ấy và đưa nó vào cuộc sống là nghĩa vụ của các nước thành viên. Chỉ khi những quyền tự do này được nhân dân sử dụng một cách thực chất thì chúng ta mới có một cơ chế bảo hiến với những điều kiện cần và đủ và do đó có hiệu quả cao.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét