Chúng ta đang ở vào một thời điểm rất đặc biệt. CSVN đang suy yếu hơn bao giờ hết.
Yếu tố quan trọng nhất khiến CSVN suy yếu chính là hầu hết người dân trong nước cũng như chính đảng viên đảng CSVN đã nhìn thấy: Đảng đã lộ diện là một đảng cướp đúng nghĩa, một đảng cướp lớn nhất, tàn bạo nhất, tham lam nhất, gian trá nhất, và phạm nhiều tội ác nhất trong suốt cả chiều dài lịch sử dân tộc. Và tội ác lớn nhất của chúng, từ Hồ Chí Minh đến tập đoàn lãnh đạo hiện nay, là tội bán nước cho Tầu cộng để duy trì quyền độc tôn thống trị toàn dân Việt bằng một thể chế độc tài vô cùng hà khắc của chúng.
Yếu tố thứ hai khiến CSVN suy yếu là sự suy sụp về kinh tế do thể chế chính trị và chính sách kinh tế phi lý, ngu xuẩn của chúng. Hiện nay, các công ty quốc doanh hầu hết đều làm ăn thua lỗ, tham nhũng lan tràn khắp bộ máy cai trị từ trên xuống dưới. Chức lớn tham nhũng lớn, chức nhỏ tham nhũng nhỏ. Dân thấp cổ bé miệng bị bóc lột đến tận xương tủy. Toàn dân tộc như một thân thể xanh xao đã và đang tiếp tục bị hàng ngàn con đỉa bu khắp người bám vào hút máu. Không một chỗ nào trên thân thể không bị đỉa bám và hút máu. Đa số người dân càng ngày càng khốn khổ, nghèo nàn, còn thiểu số cán bộ cộng sản thì càng ngày càng giàu. Hố ngăn cách giàu nghèo giữa kẻ bị trị và giới thống trị chưa bao giờ lớn khủng khiếp như hiện nay.
Trước tình trạng suy sụp ấy, CSVN cố duy trì quyền lực bằng cách gia tăng đàn áp và khủng bố tất cả những ai chúng nghi ngờ là mầm mống nổi dậy trong nước. Chúng quyết nuôi béo bộ máy công an để mua chuộc lòng trung thành của bọn này bằng cách dung dưỡng, bao che cho những hành động cướp bóc, tham nhũng, ức hiếp dân của bọn chúng. Chúng ra những luật lệ hết sức phi lý để gây khó khăn cho người dân, để người dân buộc phải vi phạm những luật lệ phi lý ấy. Chúng cố tình dồn người dân vào vị thế tội nhân để người dân sẵn sàng đút lót, hối lộ hầu được an thân. Người dân có hối lộ thì chúng mới mau giàu.
CSVN suy yếu như thế, nên việc dứt điểm chế độ là điều chưa bao giờ khả thi và thuận lợi như thời điểm này. Tuy nhiên, khả thi là một chuyện, có làm được hay không là chuyện hoàn toàn khác, nó tùy thuộc vào quyết tâm của đồng bào trong cũng như ngoài nước.
Cuộc đấu tranh trong nước cho thấy ngày càng có nhiều người tham gia, nhất là giới trẻ. Đặc biệt hơn, ngày càng có nhiều người đã từng phục vụ cho chế độ nay lại tham gia vào hàng ngũ đấu tranh chống chế độ. Điều này càng làm cho bọn lãnh đạo lo sợ hơn, vì không gì nguy hiểm cho bằng những người từng là đồng chí, từng là bạn thân thiết với mình nay trở thành kẻ đâm sau lưng mình.
Vì thế, CSVN rất lo ngại và vô cùng bối rối về tình trạng hiện nay. Nếu không đàn áp những người đấu tranh thì chắc chắn cuộc đấu tranh sẽ ngày càng lớn mạnh, số người tham gia sẽ ngày càng càng đông. Đáng sợ nhất là những kẻ trước đây cùng chiến tuyến nay trở thành kẻ thù. Cứ đà này tiếp diễn, chế độ sẽ sụp đổ, và những kẻ đang nắm quyền, từng gây nhiều tội ác, chắc chắn phải đền tội. Đó là điều mà những kẻ đang nắm quyền hiện nay tuyệt đối không muốn và nhất quyết ngăn chặn.
Nhưng ngăn chặn không phải chuyện đơn giản. Nếu đàn áp, khủng bố để người dân sợ thì tạo nên rất nhiều bất lợi. Trước hết là bộ mặt tàn bạo của chế độ càng trở nên rõ nét. Điều này chỉ làm cho dân chúng thêm phẫn nộ và càng muốn quyết tâm lật đổ chế độ hơn. Kế đó là dư luận thế giới sẽ kết án nặng nề, Hoa Kỳ sẽ đưa CSVN trở lại danh sách CPC, quốc tế sẽ có những biện pháp chế tài hữu hiệu, sẽ từ chối không cho CSVN tham gia những hiệp ước thuận lợi cho sự phát triển thương mại của chế độ... Điều này sẽ dẫn đảng và chế độ CSVN đến đường cùng.
Đằng khác, Trung Cộng ngày càng lộng hành, ép bọn lãnh đạo “hèn với giặc, ác với dân” phải làm những điều vô cùng bất lợi cho dân tộc. Không làm theo thì sẽ bị Trung Cộng trả thù, bị thanh trừng. Mà làm theo thì bị toàn dân căm thù, oán ghét. Vì thế bọn lãnh đạo CSVN đang lâm vào cảnh "tứ bề thọ địch", "tiến thoái lưỡng nan".
Việc đàn áp quá mạnh tay hiện nay có thể giải thích bằng tâm lý: khi bị đe doạ hay gặp nguy hiểm mà chưa tìm ra phương cách nào giải quyết, người ta có khuynh hướng làm theo bản năng, hậu quả ra sao thì tính sau. Bản năng cố hữu của cộng sản là gian tham và tàn bạo, nên chúng cứ tiếp tục cướp bóc và khủng bố.
Trong nước là như vậy. Cuộc đấu tranh ngày càng đông người tham gia. Năm 2005, trước khi Khối 8406 thành lập, số người công khai đấu tranh trong nước chỉ khoảng 50 người ([1]), thế mà hiện nay, sau 8 năm, có thể đã lên đến hàng ngàn người.
Để dứt điểm chế độ tàn bạo này, cuộc đấu tranh trong nước cần sự hỗ trợ của đồng bào ruột thịt hải ngoại hơn bao giờ hết. Số người đấu tranh trong nước càng đông, thì CSVN càng gia tăng số công an và tận dụng bọn xã hội đen để đàn áp, để theo dõi, để bao vây kinh tế, để bắt bỏ tù những người đấu tranh. Vì thế sự giúp đỡ tài chánh từ hải ngoại để nâng đỡ đời sống của các nhà đấu tranh và gia đình họ càng trở nên cấp thiết và càng đòi hỏi sự hy sinh của đồng bào hải ngoại nhiều hơn.
Các nhà đấu tranh trong nước sẵn sàng hy sinh cả sự an toàn của bản thân và gia đình mình để đấu tranh với chế độ tàn bạo. So sánh với sự hy sinh ấy thì sự hy sinh bình thường về tài chánh của đồng bào hải ngoại sẽ không thấm vào đâu. Các nhà đấu tranh trong nước luôn luôn bị chế độ gây khó khăn tài chánh, bị đuổi việc, bị tịch thu những phương tiện đấu tranh (máy vi tính, điện thoại, Internet, máy chụp, máy quay phim…). Những nhà đấu tranh bị tù tội luôn luôn cần được thăm nuôi để bảo toàn mạng sống và sức khỏe. Thiếu sự giúp đỡ tài chánh, cuộc đấu tranh trong nước sẽ trở nên hết sức khó khăn. Tiền tuyến trong nước đòi hỏi sự hỗ trợ tích cực từ hậu phương hải ngoại.
Với 3-4 triệu người Việt hải ngoại, nếu mỗi người mỗi tháng chỉ bỏ ra một đôla thì sẽ có được 3-4 triệu đôla. 3-4 triệu này mỗi tháng để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh thì chắc chắn việc bao vây kinh tế của chế độ CSVN đối với các nhà đấu tranh sẽ bị hoàn toàn vô hiệu hóa và sẽ thúc đẩy việc đấu tranh trong nước phát triển một cách hết sức mạnh mẽ. Đóng góp một đôla mỗi tháng là việc quá dễ dàng cho dù đối với những người nghèo nhất ở hải ngoại. Nếu chỉ quyên mỗi người mỗi tháng 10 đôla từ 100.000 người thôi, tức chỉ khoảng 3% số người Việt hải ngoại, thì cũng được 1 triệu đôla mỗi tháng. Với 1 triệu này, các nhà đấu tranh trong nước sẽ làm được biết bao việc hữu ích.
Vấn đề là: làm sao quyên góp được từng người số tiền nhỏ nhoi ấy, hay ít ra từ 3% số người Việt hải ngoại? Thiết tưởng đây là một vấn đề rất thực tế mà những người đấu tranh ở hải ngoại cần suy nghĩ để tìm ra phương cách thực hiện.
Ở hải ngoại, ai cũng mong muốn số người đấu tranh trong nước ngày càng gia tăng. Có gia tăng thì mới có đủ lực lượng để xoay chuyển tình hình. Nhưng càng gia tăng thì càng đòi hỏi sự gia tăng yểm trợ từ hải ngoại. Nếu chống cộng hay đấu tranh dân chủ mà không quan tâm đến sự hy sinh rất thực tế và cần thiết này thì thực chất chỉ là “chống cộng cho vui”.
Yểm trợ tài chánh cho cuộc đấu tranh trong nước chính là cách tỏ tình liên đới, tinh thần “đồng lao cộng khổ” và lòng yêu nước của đồng bào hải ngoại. Sự an ủi tinh thần này là một khích lệ vô cùng lớn lao cho sự hy sinh của các nhà đấu tranh dân chủ trong nước.
Hỗ trợ về tài chánh rất thực tế và cần thiết. Nhưng hỗ trợ về chính trị cũng thực tế và cần thiết không kém. Từ trước đến nay, đồng bào hải ngoại đã rất tích cực trong lãnh vực này, đặc biệt trong việc vận động chính giới các quốc gia tự do. Nhưng để hỗ trợ chính trị hữu hiệu hơn, người Việt tại mỗi quốc gia cần có một tiếng nói chung, một tiếng nói duy nhất. Có như thế tiếng nói ấy mới có sức mạnh khiến chính giới các nước phải nể vì và những gì mình vận động mới có đủ trọng lượng để thúc đẩy họ ra tay thực hiện.
Hiện nay, áp lực quốc tế đối với CSVN về nhân quyền không có tác dụng nhiều. Dường như chính giới các nước phần nhiều chỉ hứa hẹn xuông cho qua chuyện hơn là thực tâm muốn thực hiện những gì người Việt vận động. Lý do là vì đằng sau những vận động chính giới ấy của người Việt chưa có được một hậu thuẫn lớn mạnh, có thực lực. Thực lực chỉ có được nhờ những lực lượng nhỏ liên kết lại với nhau thành một lực lượng lớn với một tiếng nói duy nhất. Nếu các tổ chức, đoàn thể cứ vận động chính giới cách tản mạn, riêng rẽ thì chỉ giống như những viên gạch rời rạc trong một đống gạch mà thôi.
Để khai tử chế độ CSVN, người Việt trong nước cũng như hải ngoại, mỗi người hãy góp một viên đạn bắn vào chế độ. Nếu mỗi người đều tích cực chung tay góp sức, thì 80 triệu viên đạn từ trong nước và 3-4 triệu viên đạn từ hải ngoại đủ để đưa chế độ sang bên kia thế giới. Và khi nó đã chết, mỗi người hãy góp một cây đinh cho chiếc áo quan khâm liệm chế độ CSVN trước khi đưa nó đến nghĩa trang.
[1] Vào năm 2005, những người công khai lên tiếng tranh đấu cho nhân quyền và tự do dân chủ trong nước chỉ chừng 50 người, xếp theo thứ tự A,B,C như sau: 1) Nguyễn Vũ Bình, 2) Hoàng Minh Chính, 3) Tiêu Dao Bảo Cự, 4) Phạm Quế Dương, 5) Nguyễn Kim Điền, 6) Thích Quảng Độ, 7) Trần Độ, 8) Nguyễn Thanh Giang, 9) Nguyễn Hữu Giải, 10) Thích Thiện Hạnh, 11) Đỗ Nam Hải, 12) Trương Trí Hiền, 13) Nguyễn Hộ, 14) Dương Thu Hương, 15) Nguyễn Đình Huy, 16) Nguyễn Chính Kết, 17) Trần Khuê, 18) Nguyễn Ngọc Lan, 19) Lê Quang Liêm, 20) Phan Văn Lợi, 21) Trần Văn Lương, 22) Nguyễn Văn Lý, 23) Thích Thiện Minh, 24) Tuệ Minh, 25) Hà Sĩ Phu, 26) Vũ Cao Quận, 27) Thích Huyền Quang, 28) Lê Chí Quang, 29) Nguyễn Hồng Quang, 30) Nguyễn Đan Quế, 31) Bùi Minh Quốc, 32) Phạm Hồng Sơn, 33) Thích Tuệ Sỹ, 34) Bùi Ngọc Tấn, 35) Thích Không Tánh, 36) Hoàng Tiến, 37) Trần Dũng Tiến, 38) Chân Tín, 39) Nguyễn Khắc Toàn, 40) Nguyễn Văn Trấn, 41) Nguyễn Thị Thanh Xuân.
Cả hệ thống quyền lực áp chế người dân thế này. Thì chỉ có nổ súng kêu oan, chứ đánh trống còn ai nghe?. Xin xem một vụ tham nhũng lớn, người dân ký tên tập thể tố cáo, mà không thằng có trách nhiệm nào để ý đến. Hãy xem
Trả lờiXóahttp://lehienduc2013.blogspot.com/2013/09/cong-dan-sai-gon-tiep-tuc-to-cao-quan.html
http://lehienduc2013.blogspot.com/2013/04/cong-dan-quan-9-to-cao-le-thanh-hai.html